Hỏi: Luật Tiếp cận thông tin quy định về thời điểm công khai thông tin như thế nào?
Trả lời:
Thời điểm công khai thông tin được quy định tại Khoản 4 Điều 18 Luật Tiếp cận thông tin. Theo đó, thời điểm công khai thông tin đối với từng lĩnh vực được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
Quy định trên cũng xuất phát từ nguyên tắc Luật Tiếp cận thông tin áp dụng chung cho việc tiếp cận thông tin của công dân, trường hợp luật khác có quy định về việc tiếp cận thông tin mà không trái với quy định tại Điều 3 của Luật Tiếp cận thông tin thì được thực hiện theo quy định của luật đó. Quy định trên của Luật nhằm bảo đảm tính phù hợp, thống nhất giữa quy định của Luật Tiếp cận thông tin với các văn bản quy phạm pháp luật khác, cũng như phù hợp với từng loại thông tin trong từng lĩnh vực. Về thực tiễn, trước khi Luật Tiếp cận thông tin được ban hành, hệ thống pháp luật đã có nhiều văn bản quy định về việc công khai thông tin, trong đó quy định cụ thể thời điểm công khai thông tin. Do đó, thời điểm công khai các loại thông tin này sẽ được áp dụng theo quy định của pháp luật hiện hành. Ví dụ: theo Điểm a Khoản 3 Điều 48 Luật Đất đai năm 2013, việc công bố công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất “được thực hiện trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê duyệt”; theo Khoản 1 Điều 80 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, “Chủ tịch nước công bố luật, pháp lệnh chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày luật, pháp lệnh được thông qua”…
Bên cạnh đó, Luật Tiếp cận thông tin cũng có quy định điều chỉnh trong trường hợp pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về thời điểm công khai thông tin. Khoản 4 Điều 18 của Luật quy định: “trường hợp pháp luật chưa có quy định thì chậm nhất là 05 ngày làm việc kể từ ngày tạo ra thông tin, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải công khai thông tin”.