2. Tiềm năng và tài nguyên thiên nhiên
Địa hình không
phức tạp lắm so với các tỉnh trung du, miền núi khác, đây là một thuận
lợi của Thái Nguyên cho canh tác nông lâm nghiệp và phát triển kinh tế -
xã hội nói chung so với các tỉnh trung du miền núi khác.
Khí
hậu chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô
từ tháng 10 đến tháng 5. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.000 đến
2.500 mm; cao nhất vào tháng 8 và thấp nhất vào tháng 1. Mùa đông được
chia thành 3 vùng rõ rệt: Vùng lạnh nhiều nằm ở phía Bắc huyện Võ Nhai;
Vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương và phía Nam huyện Võ
Nhai; Vùng ấm gồm các huyện: Đại Từ, Thành phố Thái Nguyên, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên và thị xã Sông Công.
Nhiệt độ chênh lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 6: 28,9°C) với tháng
lạnh nhất (tháng 1: 15,2°C) là 13,7°C. Tổng số giờ nắng trong năm dao
động từ 1.300 đến 1.750 giờ và phân phối tương đối đều cho các tháng
trong năm. Nhìn chung, khí hậu tỉnh Thái Nguyên thuận lợi cho phát triển
ngành nông, lâm nghiệp.
Tài
nguyên khoáng sản phong phú về chủng loại, là một lợi thế so sánh lớn
trong việc phát triển các ngành công nghiệp luyện kim, khai khoáng… Tỉnh
Thái Nguyên có trữ lượng than lớn thứ hai trong cả nước, than mỡ trữ
lượng trên 15 triệu tấn, than đá trữ lượng khoảng 90 triệu tấn; kim loại
màu có thiếc, chì, kẽm, vonfram, vàng, đồng, niken, thủy ngân… Khoáng
sản vật liệu xây dựng cũng là tiềm năng nguyên liệu rất lớn để sản xuất
xi măng, sản xuất đá ốp lát các loại và sản xuất vật liệu xây dựng.
Hạ
tầng cơ sở như hệ thống điện, nước, bưu chính viễn thông, giao thông
(kể cả đường bộ, đường sắt và đường thủy) phát triển khá hoàn thiện và
thuận lợi
Với lợi thế có nhiều danh lam thắng cảnh tự nhiên như hồ Núi Cốc, hang Phượng Hoàng, các di
tích lịch sử như: An toàn khu Việt Bắc - ATK, có rừng Khuôn Mánh và di
tích khảo cổ học thời kỳ đồ đá cũ ở huyện Võ Nhai. Bên cạnh đó, còn có
các di tích kiến trúc nghệ thuật chùa chiền, đình, đền tại nhiều địa
phương trong tỉnh như: Khu Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Đền
Đuổm, chùa Hang, chùa Phủ Liễn, đền Xương Rồng, đền Đội Cấn. Hiện nay,
Thái Nguyên đang triển khai quy hoạch khu du lịch hang Phượng Hoàng,
suối Mỏ Gà, hồ Suối Lạnh... và cả hệ thống khách sạn chất lượng cao gần đạt tiêu chuẩn quốc tế. Năm 2007, Thái Nguyên đã tổ chức thành công năm du lịch quốc gia hướng về cội nguồn chiến khu Việt Bắc thu hút hàng triệu khách du lịch đến thăm, trong đó có nhiều khách nước ngoài.
3. Dân số, nguồn nhân lực, truyền thông văn hóa và ngành nghề của dân cư
Dân số Thái Nguyên khoảng 1,2 triệu người, trong đó có 8 dân tộc chủ yếu sinh sống, đó là Kinh, Tày, Nùng, Sán dìu, H’mông, Sán chay, Hoa và Dao. Ngoài
ra, Thái Nguyên được cả nước biết đến là một trung tâm đào tạo nguồn
nhân lực lớn thứ 3 sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với 6 trường đại
học, 11 trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, 9 trung tâm dạy
nghề, mỗi năm đào tạo được khoảng gần 100.000 lao động;
Là
một trung tâm y tế của vùng Đông Bắc với 1 Bệnh viên Đa khoa Trung
ương, 9 Bệnh viện cấp tỉnh và 14 Trung tâm y tế cấp huyện; Là một nơi có
những địa danh du lịch lịnh sử, sinh thái – danh thắng, có nhiều danh
thắng tầm cỡ chưa được đầu tư khai thác xứng tầm như: Hồ Núi Cốc, Hang
Thần Sa – Thác Mưa bay và Hồ thủy lợi Văn Lăng và Khu đô thị hai bờ Sông
Cầu...
4. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội
Tình
hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm gần đây có nhiều thuận
lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, một số ngành nghề trọng điểm
đều có sự tăng về năng lực sản xuất; các thành phần kinh tế đều có sự
tăng trưởng, nhất là kinh tế ngoài quốc doanh đã khẳng định vị trí của
mình trong nền kinh tế nhiều thành phần... song cũng phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức như: thiên tai, dịch bệnh gia súc; giá cả đầu
vào ở hầu hết các ngành sản xuất đều tăng làm cho chi phí sản xuất tăng
cao đã đẩy giá thành sản phẩm tăng lên, ảnh hưởng không nhỏ tới sức
cạnh tranh; kết cấu cơ sở hạ tầng, nhất là kết cấu hạ tầng khu vực nông
thôn miền núi tuy đã cải thiện nhưng vẫn thiếu và xuống cấp; lĩnh vực xã
hội còn nhiều bức xúc, tai nạn giao thông tuy có nhiều biện pháp nhằm
kiềm chế nhưng vẫn chưa có xu hướng giảm... Song với sự chỉ đạo quyết
tâm và nỗ lực cố gắng các cấp, các ngành và nhân dân toàn tỉnh nên tình
hình kinh tế - xã hội đã thu được kết quả đáng kể, kinh tế tiếp tục phát
triển theo chiều hướng tích cực ...
Năm
2009, kinh tế cả nước phải chịu những tác động từ những bất ổn và suy
thoái của kinh tế thế giới, đặc biệt khủng hoảng tài chính kéo theo sự
suy giảm của nhiều nền kinh tế; tuy nhiên kinh tế Thái Nguyên với đặc
điểm là phụ thuộc không nhiều vào xuất khẩu và tỷ trọng sản xuất của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thấp hơn nhiều so với bình quân
chung cả nước nên kinh tế của tỉnh bị ảnh hưởng nhẹ hơn so với cả nước.
Bên cạnh đó, bằng những chính sách mạnh mẽ, kịp thời, phù hợp; cùng với
sự cố gắng, nỗ lực của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và nhân
dân toàn tỉnh, nên tình hình kinh tế - xã hội năm 2009 trên địa bàn đã
dần phục hồi trong quý II và phát triển ổn định trở lại trong quý III và
quý IV/2009, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ổn định, trật
tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tốc
độ tăng trưởng kinh tế (GDP) trên địa bàn năm 2009 là 9,1% (kế hoạch
điều chỉnh là tăng 9%); GDP bình quân đầu người năm 2009 ước đạt 14,6
triệu đồng, vượt mục tiêu kế hoạch và tăng 2,5 triệu đồng/người so với
năm 2008; Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 1994) trên địa
bàn là 9.972 tỷ đồng, bằng 100,2% kế hoạch đầu năm và tăng 14% so với
năm 2008; Giá trị xuất khẩu trên địa bàn ước đạt 65,38 triệu USD, bằng
93,4% kế hoạch điều chỉnh. Trong đó, xuất khẩu địa phương là 52,17 triệu
USD, bằng 65,8% so với cùng kỳ; Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa
bàn đạt 1.631,87 tỷ đồng, trong đó tổng thu ngân sách trong cân đối là
1.422,37 tỷ đồng, bằng 124,22% dự toán đầu năm; bằng 108% dự toán điều
chỉnh và tăng 28,48% so với năm 2008. Riêng thu nội địa 1.308,17 tỷ
đồng; bằng 120,57% dự toán đầu năm; bằng 108,38% dự toán điều chỉnh và
tăng 24,21% so với năm 2008; Giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp,
thuỷ sản (theo giá so sánh 1994) ước đạt 2.316 tỷ đồng, tăng 4,02% so
với năm 2008, bằng mục tiêu kế hoạch điều chỉnh; Giá trị sản xuất trên 1
ha đất nông nghiệp trồng trọt ước đạt 47 triệu đồng, bằng mục tiêu kế
hoạch điều chỉnh; Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi năm 2009 là 625 tỷ
đồng, đạt tốc độ tăng 12,7% so với năm 2008 và vượt mục tiêu kế hoạch đề
ra đầu năm là tăng 8% trong năm 2009; Sản lượng lương thực có hạt ước
đạt 408,3 nghìn tấn, bằng 102,1% kế hoạch, giảm 0,43% (- 1.777 tấn) so
với năm 2008; Diện tích trồng rừng tập trung toàn tỉnh (từ tất cả các
nguồn: dân tự trồng; doanh nghiệp và trồng theo dự án của nhà nước) đạt
6.565 ha, tăng 11,4% so với trồng mới năm 2008. Trong đó, riêng địa
phương trồng theo dự án 661 đạt 5.045 ha, bằng 112,1% kế hoạch; Diện
tích chè trồng mới và trồng lại được 709 ha, đạt 118,2% kế hoạch; Tỷ lệ
che phủ rừng tính đến hết năm 2009 là 48,6%, thấp hơn 0,4% so với mục
tiêu kế hoạch đề ra là 49%; Tỷ lệ sử dụng nước sạch ở nông thôn là 84%,
đạt mục tiêu kế hoạch;
Nhóm chỉ tiêu xã hội:
- Tỷ suất sinh thô trên địa bàn năm 2009 đạt 14,62%0, giảm 0,2%0 so với năm 2008, hoàn thành mục tiêu kế hoạch.
- Tạo việc làm mới cho 16.500 lao động, trong đó xuất khẩu lao động được 1.500 người, đạt 100% kế hoạch điều chỉnh.
- Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh năm 2009 là 13,99%, giảm 3,75% so với năm 2008, vượt mục tiêu kế hoạch (kế hoạch là giảm 2,5%).
- Giảm tỷ lệ trẻ em (dưới 5 tuổi) suy dinh dưỡng xuống còn 19,3%, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra.
Đánh
giá chung, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh những năm gần
đây, đặc biệt là 3 năm gần đây (2007, 2008, 2009) mặc dù còn gặp nhiều
khó khăn song kinh tế - xã hội của tỉh vẫn tiếp tục phát triển theo
hướng tích cực, các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của tỉnh đều hoàn
thành so với kế hoạch và tăng khá so với cùng kỳ. Một số lĩnh vực xã hội
cũng có sự cải thiện đáng kể.
5. Triển vọng phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020
Xây
dựng tỉnh Thái Nguyên trở thành một trong những trung tâm kinh tế (công
nghiệp, thương mại, du lịch), văn hóa, giáo dục, y tế của Vùng trung du
và miền núi Bắc Bộ; có hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối hiện đại và
đồng bộ; có nền văn hóa lành mạnh và đậm đà bản sắc dân tộc; quốc phòng –
an ninh vững mạnh; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không
ngừng được nâng cao. Với mục tiêu cụ thể như sau:
a)
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 2006 - 2010 đạt 12% - 13%/năm,
thời kỳ 2011 - 2015 đạt 12,0 - 12,5%/năm và thời kỳ 2016 - 2020 đạt 11 -
12%/năm; trong đó, tăng trưởng bình quân của các ngành trong cả thời kỳ
2006 - 2020: nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt 5 - 5,5%/năm, công nghiệp –
xây dựng đạt 13,5% - 14,5%/năm, dịch vụ đạt 12,5%/năm.
b) GDP bình quân đầu người đạt trên 800 USD vào năm 2010, 1.300 – 1.400 USD vào năm 2015 và 2.200 - 2.300 USD vào năm 2020.
c)
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công
nghiệp, xây dựng, dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp (nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản), cụ thể: công nghiệp và xây dựng chiếm
45%, dịch vụ chiếm 38 – 39%, nông nghiệp chiếm 16-17% vào năm 2010;
tương ứng đạt 46 – 47%, 39 – 40%, 13 – 14% vào năm 2015; đạt 47 – 48%,
42 – 43%, 9 – 10% vào năm 2020.
d)
Kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 65 – 66 triệu USD vào năm 2010, đạt trên
132 triệu USD vào năm 2015 và trên 250 triệu USD vào năm 2020; tốc độ
tăng xuất khẩu bình quân trong cả thời kỳ 2006 – 2020 đạt 15 – 16% năm.
đ)
Thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.500 – 1.550 tỷ đồng vào năm 2010,
4.000 – 4.100 tỷ đồng vào năm 2015 và trên 10.000 tỷ đồng vào năm 2020;
tốc độ tăng thu ngân sách trên địa bàn bình quân trong cả thời kỳ 2006 –
2020 đạt trên 20%/năm.
e)
Tốc độ tăng dân số trong cả thời kỳ 2006 – 2020 đạt 0,9%/năm; trong đó,
tốc độ tăng dân số tự nhiên đạt 0,8 – 0,82%/năm và tăng cơ học đạt
0,08% - 0,1%/năm.
g)
Trước năm 2020, hoàn thành phổ cập giáo dục trung học phổ thông cho 95%
dân số trong độ tuổi đi học ở khu vực thành phố, thị xã, thị trấn
(trong đó 15% học nghề, 15% giáo dục chuyên nghiệp, 70% tốt nghiệp phổ
thông và bổ túc) và 85% dân số trong độ tuổi đi học ở khu vực nông thôn;
kiên cố hoá toàn bộ trường, lớp học; mỗi huyện có ít nhất 3 trường
trung học phổ thông.
h)
Bảo đảm đủ cơ sở khám, chữa bệnh và nhân viên y tế; ưu tiên đầu tư cải
tạo, nâng cấp và xây dựng mới các cơ sở khám, chữa bệnh ở cả ba tuyến:
tỉnh, huyện, xã; phấn đấu tăng tuổi thọ trung bình lên 72 tuổi vào năm
2010 và trên 75 tuổi vào năm 2020.
i)
Giải quyết việc làm bình quân hàng năm cho ít nhất 15.000 lao động
trong thời kỳ 2006 – 2010 và cho 12.000 – 13.000 lao động trong thời kỳ
2011 – 2020; bảo đảm trên 95% lao động trong độ tuổi có việc làm vào năm
2010; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 38 – 40% vào năm 2010 và đạt 68 –
70% vào năm 2020; tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo quy định tại Quyết
định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8-7-2005 của Thủ tướng Chính phủ) giảm
xuống còn dưới 15% vào năm 2010 và còn 2,5 – 3% vào năm 2020; chênh lệch
giữa các vùng, các tầng lớp dân cư trong việc thụ hưởng các dịch vụ xã
hội cơ bản được thu hẹp; chỉ số phát triển con người (HDI) tăng lên trên
0,7% vào năm 2010 và trên 0,8% vào năm 2020.
k)
Bảo đảm trên 90% số hộ gia đình được dùng nước sạch vào năm 2010 và
nâng tỷ lệ này lên 100% vào trước năm 2020; 100% số hộ có điện sử dụng
vào trước năm 2010.
l) Tỷ lệ đô thị hóa đạt 35% vào năm 2010 và đạt 45% vào năm 2020.
m) Nâng cao chất lượng rừng và tỷ lệ che phủ rừng đạt 50% vào năm 2020.
n) Bảo đảm môi trường sạch cho cả khu vực đô thị và nông thôn.
o) Tốc độ đổi mới công nghệ bình quân thời kỳ 2006 – 2010 đạt 14 – 16%/năm và thời kỳ 2011 – 2020 đạt 16 – 18%/năm.
Với
quyết tâm tăng trưởng cao từ 12,5% một năm trở lên, Thái Nguyên sẽ tiếp
tục mời gọi các doanh nghiệp đầu tư có tiềm năng vào các lĩnh vực: Sản
xuất công nghiệp có nguồn gốc từ sắt thép, các lĩnh vực sản xuất phụ
tùng ô tô, xe máy, điện, điện tử và các sản phẩm từ chè; Các dự án đầu
tư lớn để nâng cấp Khu du lịch Hồ Núi Cốc lên thành Khu du lịch trọng
điểm quốc gia; Khu du lịch sinh thái - lịch sử Thần Sa Võ Nhai, Hồ Suối
Lạnh; Các Dự án sân golf ở hồ Núi Cốc, khu Sinh thái Lương Sơn – thành
phố Thái Nguyên, khu hồ Suối Lạnh - Phổ Yên, Hồ thủy lợi – thủy điện Văn Lăng;
Xây dựng mới, cải tạo các chung cư, xây dựng nhà ở cho công nhân thuê ở
các khu công nghiệp tập trung, các siêu thị và các trung tâm thương mại,
nhà hàng, khách sạn 3 sao trở lên; Các dự án thành lập hoặc hợp tác đầu
tư về Trường Đại học Quốc tế với các ngành học thiết thực, Bệnh viện
Quốc tế với các chuyên khoa sâu tại Thái Nguyên. Ngoài ra, đầu tư vào hạ
tầng xe buýt cũng là một lĩnh vực đang ưu tiên (Thái Nguyên là tỉnh
chưa phải bù lỗ cho vận tải xe buýt).
Theo thainguyen.gov.vn
|